4 đặc điểm phân biệt đồng tiền ảo với các loại tiền còn lại

Thảo luận trong 'Tìm kiếm việc làm ,Tuyển Sinh' bắt đầu bởi khuongtienao, 30/6/21.

  1. khuongtienao

    khuongtienao Member

    1. Phân biệt tiền điện tử với tiền ảo và tiền công nghệ số

    các khái niệm về cách kiếm tiền online (electronic money/e-money) hiện nay trên toàn cầu thường được hiểu ở phạm vi khá rộng. Thí dụ, ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) biểu thị tiền điện tử là trị giá tiền tệ được lưu trữ trên một thiết bị điện tử được dùng rộng rãi để tiến hành thương lượng trả tiền cho các tổ chức khác chẳng phải là đơn vị phát hành. Còn ngân hàng trả tiền quốc tế (BIS) khái niệm tiền điện tử là trị giá được lưu trữ hoặc sản phẩm trả trước, trong đấy thông tin về khoản tiền hoặc trị giá khả dụng của khách hàng được lưu trữ trên một trang bị điện tử thuộc sở hữu của khách hàng. Các khái niệm này khá phức tạp, có thể gây ra lầm lẫn về nội hàm của tiền điện tử, khó phân biệt với tiền ảo, tiền kỹ thuật số và thậm chí là cả tiền di động (mobile money).

    [​IMG]

    Xem thêm: hướng dẫn sử dụng mt4

    Trong thực tiễn, tiền điện tử đã được xác định và phân biệt rõ ràng với các loại tiền khác thông qua 4 đặc điểm chính. Trước nhất, tiền điện tử phải là tiền pháp định (legal tender). Theo ấy, tiền điện tử có số đông 3 chức năng của tiền là dự trữ (store value), đàm đạo (medium of exchange) và hạch toán (unit of account). Đồng thời, tiền điện tử cũng luôn được diễn tả dưới dạng giá trị của tiền pháp định của một quốc gia (thí dụ VND, đô la, SGD...). Hơn thế nữa, tiền điện tử cũng được ngân hàng Trung ương (NHTW) bảo đảm.

    Thứ hai, tiền điện tử có thể do nhà băng phát hành hoặc cũng có thể do doanh nghiệp phi nhà băng phát hành. Vì vậy, để bảo đảm an toàn cho người dùng, tất cả các nước luôn có quy định rất chặt chẽ đối với những tổ chức phát hành tiền điện tử. Đối với các nhà băng, NHTW có hệ thống các quy định chặt chẽ về an toàn hoạt động, quản trị rủi ro, tỷ lệ dữ trữ buộc phải, bảo hiểm tiền gửi… Đối với các đơn vị phi nhà băng, NHTW có các quy định về cấp phép, về giám sát… và thông thường phải thực hiện ký quỹ tại hệ thống nhà băng (tương ứng với số tiền phát hành với một tỷ lệ nhất định).

    Thứ ba, tiền điện tử có công thức bảo đảm tiền tệ (monetary regimes) của NHTW. Theo đấy, tiền điện tử do những ngân hàng phát hành sẽ được bảo đảm bằng tỷ lệ dữ trữ đề xuất tại NHTW, còn tiền điện tử do những công ty phi ngân hàng phát hành sẽ được đảm bảo bằng công thức ký quỹ tại hệ thống nhà băng (với một tỷ lệ ký quỹ nhất định). Bình thường, tỷ lệ ký quỹ này sẽ cao hơn rộng rãi so với tỷ lệ dự trữ yêu cầu do những quy định an toàn áp dụng đối với những công ty này thấp hơn phổ biến so với ngân hàng. Tỷ lệ ký quỹ tại một vài đất nước theo cách tiếp cận thận trọng ở mức 100%. Đây cũng là điểm khác biệt mấu chốt giữa tiền ngân hàng (bank notes) với tiền điện tử (e-money).

    Thứ tư, tiền điện tử chỉ được lưu trữ trong những sản phẩm điện tử gồm hai loại: (i) phần cứng (hard-ware based products) như thẻ chíp, điện thoại sáng tạo gắn chíp và (ii) dữ liệu dựa trên phần mềm (soft-ware based) như ví điện tử Paypal.

    Xem thêm: đường ma là gì

    Đối với tiền ảo (virtual currency), ECB khái niệm như sau: “Đồng tiền ảo là một loại tiền công nghệ số ko chịu sự điều hành, được phát hành bởi các người lớn mạnh phần mềm (developers) thường đồng thời là người kiểm soát hệ thống; được sử dụng và hài lòng thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất thiết”. Thí dụ, tiền ảo Pokecoins trong trò chơi Pokemon GO hoặc khoản tiền Facebook được sử dụng cho truyền bá hay những trò chơi trên app Facebook... Theo ấy, có thể thấy tiền ảo và tiền điện tử rất không giống nhau. Tiền ảo không hề là tiền pháp định nên ko gắn với quyền mặc định được chuyển đổi sang tiền pháp định và được NHTW bảo đảm. Những đơn vị phát hành tiền ảo cũng không chịu sự điều hành, giám sát chặt chẽ của NHTW. Đồng thời, phạm vi hoạt động của tiền ảo thường hơi hẹp chỉ trong phạm một cùng đồng và sử dụng cho mục tiêu khăng khăng (thí dụ, game online). Nhắc cách khác, tiền ảo mang phổ quát đặc điểm của hàng hóa bàn thảo hơn là một đồng tiền. Dù rằng vậy, hiện nay tiền ảo đang từng bước tăng trưởng với loại tiền ảo có thể quy đổi (convertible virtual currency) nhưng chỉ gắn bổn phận của công ty phát hành mà ko gắn với phận sự của NHTW và phạm vi hoạt động cũng chỉ ở phạm vi một cộng đồng như nêu trên.

    Còn tiền công nghệ số hay tiền mã hóa (crytocurrency): được cho ra bởi những thuật toán mã hóa phức tạp, được đàm phán, trao đổi hoàn toàn trên môi trường Internet và hiện nay chưa chịu sự quản lý của bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào (trừ khi được NHTW trực tiếp phát hành). Ví dụ điển hình của tiền phương pháp số là Bitcoin, Ethereum... Có thân xác định gốc của tiền mã hóa là tiền ảo nhưng đang tăng trưởng để có rộng rãi đặc điểm của tiền điện tử như khả năng chuyển đổi thành tiền pháp định, khả năng trả tiền, còn khả năng tích tụ trị giá thì ít hơn (do luôn biến động nhiều)... Mặc dù vậy, tiền công nghệ số vẫn còn khoảng cách rất xa để trở thành tiền điện tử với lý do quan trọng nhất là sự công nhận của NHTW các quốc gia. Lúc NHTW các quốc gia ko thừa nhận, đồng bạc phương pháp số sẽ không được bảo đảm và ko có khả năng quy đổi ở phạm vi rộng như tiền điện tử. Hiện nay tiền công nghệ số đang được lớn mạnh theo hướng khai thác các lợi thế, Về ưu điểm của kỹ thuật chuỗi khối - blockchain (như chi phí thương lượng thấp, độ an toàn bảo mật cao, thuận lợi, chóng vánh...) hơn là theo hướng sử dụng đồng bạc kỹ thuật số như 1 đồng tiền đích thực.

    Một loại tiền khác cũng thường bị hiểu nhầm ấy là tiền di động (mobile money), quan niệm rằng tiền di động và tiền điện tử khác nhau. Tuy nhiên, theo khái niệm của Hiệp hội thông báo di động toàn cầu (GSMA), Mobile money có thể được hiểu ngắn gọn là tiếp cận nhà cung cấp tài chính qua điện thoại di động. định nghĩa này rộng và bao hàm đông đảo ý nghĩa của nhà sản xuất này, nhất là từ góc độ người sử dụng. Theo đó, với bản chất là tiền pháp định, tiền di động có thể hiểu là một dạng thức tiền điện tử do doanh nghiệp (thường là nhà mạng) sản xuất nhà sản xuất trung gian trả tiền phát hành và định danh quý khách thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động. Dạng thức này chính là ví điện tử trên thuê bao di động, ko cần liên kết với account ngân hàng. Doanh nghiệp tài chính quốc tế (IFC) cũng quan niệm rằng, mobile money là một dạng tiền điện tử, trong đó những giao dịch trả tiền và nguồn vốn được tiến hành trên điện thoại di động, có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp gắn với tài khoản nhà băng.

    2. Quy định về tiền điện tử tại Việt Nam

    Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào quy định khái niệm tiền điện tử. Tuy vậy, một vài văn bản đã quy định những dạng thức của tiền điện tử gồm ví điện tử, thẻ trả trước… như tại Luật nhà băng Nhà nước (2010), Luật những tổ chức tín dụng (2010), Nghị định số 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ về trả tiền không sử dụng tiền mặt và Nghị định số 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP, Thông tư số 19/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng (được sửa đổi bởi Thông tư số 26/2017/TT-NHNN). Hiện nay, Dự thảo Nghị định quy định về thanh toán ko sử dụng tiền mặt sửa đổi đã hợp nhất đưa ra định nghĩa rõ ràng về tiền điện tử:“Tiền điện tử là trị giá tiền tệ lưu trữ trên những công cụ điện tử được trả trước bởi khách hàng cho ngân hàng, chi nhánh nhà băng nước ngoài, công ty sản xuất dịch vụ trung gian thanh toán để tiến hành đàm phán trả tiền và được đảm bảo giá trị tương ứng tại nhà băng, bao gồm: thẻ trả trước, ví điện tử, tiền di động”.

    So sánh với các định nghĩa trên thế giới, có thể thấy định nghĩa trong dự thảo tương đối phù hợp và có phần dễ hiểu, rõ ràng và dễ phân biệt hơn. Quan yếu hơn là việc thống nhất đưa cả 3 loại hình tiền điện tử vào văn bản pháp lý không những giúp ngừng rõ ràng khuôn khổ của tiền điện tử mà còn giúp công tác quản lý được thống nhất về một mai dong là NHNN, trong khoảng đó lấp được lỗ hổng trong công tác điều hành đối với mobile money hiện vẫn đang để trống.

    cùng lúc, các quy định trong dự thảo can hệ tới tổ chức phi ngân hàng cũng giúp phân biệt rõ đơn vị phát hành tiền điện tử hợp pháp (được cấp phép, giám sát hoạt động) với công ty hoạt động không phép, phạm pháp. Qua đó, giúp phân biệt rõ giữa tiền điện tử “hợp pháp” với tiền ảo, tiền điện tử “bất hợp pháp”, giúp những cơ quan có thẩm quyền trong ngăn phòng ngừa các hành vi tù hãm trong ngành này vốn dĩ diễn biến phức tạp thời kì qua.



    Nắm bắt thiên hướng, cập nhật thông tin về mql5 tại Việt Nam
     

    Like Ủng Hộ Diễn Đàn

Chia sẻ trang này